bet365 mobile bet Nền tảng trực tuyến trang web chính thức

BA TRI NƠI ĐẾN CỦA CHÚNG TÔI TRÊN HÀNH TRÌNH TÌNH NGUYỆN - MÙA HÈ XANH
 
GIỚI THIỆU
Nằm ở phía đông cù lao Bảo, phía bắc Ba Tri giáp với huyện Bình Đại, có chung ranh giới con sông Ba Lai, phía nam giáp huyện Thạnh Phú, có chung ranh giới con sông Hàm Luông, phía đông giáp biển (với chiều dài bờ biển gần 22 km), phía tây giáp huyện Giồng Trôm
Vốn do phù sa của hai con sông Ba Lai và Hàm Luông bồi tụ nên, lại nằm sát biển, đất đai Ba Tri gồm những đồng ruộng, xen kẽ những con giồng. Vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, Ba Tri vẫn còn phần lớn là rừng hoang và đầm lầy, nơi ngự trị những loài thú như cọp, heo rừng, khỉ, trăn, rắn, cá sấu, rái cá. Những giai thoại khá phổ biến về cọp, sấu lưu truyền trong vùng nói lên thực trạng đó. Những dải rừng ngập mặn là nơi cư trú của những loài thủy tộc tôm, cua, cá, sò, ốc và bên trên là các loài chim trời. Hiện nay, ở cồn Nhàn (còn gọi là cồn Chim), nơi một thời hội tụ hàng trăm loài chim, cò và dơi, kể cả các loài chim di cư tránh rét từ phương bắc đến hàng năm, chỉ còn lưu lại trong ký ức của người dân.

Do vị trí thuận lợi, nằm giữa hai cửa sông lớn, đất đai cao ráo, cho nên Ba Tri là một trong những điểm định cư sớm nhất của những lưu dân người Việt ở Bến Tre. Những tài liệu thu thập được qua những chuyến khảo sát gia phả của một số dòng họ trong vùng, kết hợp với những thư tịch cổ, cho thấy rằng từ đầu thế kỷ XVIII, đã có nhiều người miền Trung đến đây định cư làm nghề biển và khai phá đất đai. Theo sử sách triều Nguyễn, vào năm 1742, dân cư ở đây cũng còn rất thưa thớt. Thái Hữu Xưa, người phủ Tư Nghĩa (thuộc tỉnh Quảng Ngãi ngày nay) vào đây làm ăn và được cử làm cai trại đầu tiên của Ba Tri cá trại. Năm 1759, Thái Hữu Xưa xin lập làng, đặt tên là Bình Đông .

Vào cuối thế kỷ XVIII, cù lao Bảo thuộc tổng Tân An, châu Định Viễn, dinh Phiên Trấn. Sau khi Gia Long lên ngôi vua, có chủ trương sửa đổi, phân chia lại khu vực hành chính, thì châu Định Viễn được thăng lên phủ Định Viễn, cù lao Bảo là tổng An Bảo. Năm 1808, tổng An Bảo (tức cù lao Bảo) gồm 63 làng, trong khi đó, tổng Tân Minh (cù lao Minh) gồm 72 làng.

Đến triều Minh Mạng, 1832, tổng An Bảo được thăng lên huyện với tên mới là Bảo An. Đến năm 1837, nghĩa là sau khi lập xong “Địa bạ Minh Mạng”, thì huyện Bảo An được chia thành hai huyện: Bảo An và Bảo Hựu. Huyện Bảo An (mới) nằm ở phía đông cù lao Bảo, có diện tích gần tương đương với huyện Ba Tri ngày nay. Ranh giới của huyện Bảo An vào năm 1851 gồm: phía đông là cửa Ngao Châu (tức Bãi Ngao ngày nay), phía tây giáp huyện Bảo Hựu, phía bắc giáp huyện Kiến Hòa (gồm Bình Đại, Chợ Gạo thuộc tỉnh Định Tường), phía nam giáp huyện Duy Minh, phía đông giáp biển, có 5 tổng, 23 thôn, lỵ sở lúc bấy giờ đặt làng An Lái, gần rạch Cái Bông ngày nay.

Năm 1867, Pháp chiếm xong cả Nam Kỳ Lục tỉnh, phân định lại địa giới hành chính, thì cù lao Bảo và cù lao Minh (của tỉnh Vĩnh Long cũ) thuộc về tham biện (inspection) Hoằng Trị, lỵ sở đặt tại Mỏ Cày (thị trấn ngày nay), nhưng đến cuối năm này, Hoằng Trị lại chia thành 2 tham biện: tham biện Mỏ Cày (tức cả phần đất cù lao Minh) và tham biện Bến Tre (tức cả phần đất cù lao Bảo).

Ngày 1-1-1900, áp dụng nghị định của Toàn quyền Paul Doumer ký ngày 20-12-1899, các tham biện (inspection) và hạt (arrondissement) đổi thành tỉnh (province), tỉnh Bến Tre được thành lập gồm cù lao Bảo và cù lao Minh, có 21 tổng (bỏ cấp huyện).

Sau năm 1918, chính quyền thuộc địa phục hồi lại chế độ hành chính cấp quận (thay cho huyện), lúc bấy giờ Bến Tre chia thành 4 quận:

Cù lao Bảo: quận Châu Thành và quận Ba Tri. 
Cù lao Minh: quận Mỏ Cày và quận Thạnh Phú. 
Quận Ba Tri lúc ấy đặt lỵ sở tại làng An Đức gồm có 5 tổng và 26 làng.

Năm 1946, khi bước vào cuộc Kháng chiến chống Pháp lần thứ 2, phần đất tổng Bảo Hựu được tách ra, hợp cùng phần đất tách từ quận Ba Tri để lập một huyện mới, lấy tên là huyện Tán Kế (về sau đổi tên là huyện Giồng Trôm). Huyện Ba Tri là phần đất còn lại, gồm một thị trấn và 23 xã: Bảo Thạnh, Bảo Thuận, An Thủy, Tân Thủy, An Hòa Tây, Vĩnh Hòa, Vĩnh An, Phú Lễ, Phú Ngãi, Phước Tuy, Tân Xuân, Tân Mỹ, Mỹ Nhơn, Mỹ Chánh, Mỹ Thạnh, Mỹ Hòa, An Ngãi Trung, An Ngãi Tây, Tân Hưng, An Phú Trung, An Bình Tây, An Đức, An Hiệp và Thị Trấn, với dân số 191.097 người (Số liệu thống kê 2013).

Nói đến Ba Tri, trước hết là nghĩ về một mảnh đất có truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất, từ hình ảnh “Ông già Ba Tri” can trường quyết bảo vệ lẽ phải đến cùng (đã trở thành huyền thoại) đến nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu - ngọn cờ yêu nước tiêu biểu của nền thơ ca dân tộc nửa sau thế kỷ XIX, hay nói như Thủ tướng Phạm Văn Đồng “một ngôi sao càng nhìn càng thấy sáng”. Ông giáo làng Phan Tòng là liệt sĩ đầu tiên hy sinh trong trận tập kích dã ngoại, khi quân xâm lược đặt chân lên tỉnh nhà với “khí phách ngàn thu rỡ núi non” . Người anh hùng Tán Kế Lê Quang Quan đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở vùng Ba Châu vào những năm 1867 – 1868, và đã hy sinh một cách anh dũng. Còn có thể kể ra nhiều nhân vật yêu nước khác như Lê Văn Lực, Trần Văn Đinh...

Ba Tri cũng là nơi có nhiều lò võ dân tộc, đã từng sản sinh ra những người võ nghệ cao cường, tiếng tăm lan tỏa ra bên ngoài tỉnh. Điều này có liên quan trực tiếp đến chiến thuật “đánh giáp lá cà” trong trận Giồng Gạch (7-1-1868), cũng như phong trào luyện võ mang tính chất quần chúng của thời kỳ tiền khởi nghĩa 1945 và cuộc Đồng khởi 1960.

Là huyện ven biển có cửa sông lớn Hàm Luông, Ba Tri có mối quan hệ giao lưu buôn bán với bên ngoài khá sớm. Chính đó cũng là điều kiện để con người ở đây có thể tiếp nhận những kinh nghiệm sản xuất, tổ chức đời sống cùng những phong trào chính trị, văn hóa từ những nơi khác đưa lại. Cho nên không phải ngẫu nhiên mà hơn một trăm năm trước, Nguyễn Đình Chiểu đã chọn nơi này để “tị địa”, dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân, sáng tác văn thơ kháng Pháp và làm điểm hẹn gặp gỡ của những bạn bè yêu nước trong điều kiện đôi mắt bị mù lòa.

Chính vì vậy, “hạt giống đỏ” của cuộc cách mạng giải phóng đất nước đã được gieo vào đây tương đối sớm. Không kể phong trào “Hội kín” đã từng có nhiều người yêu nước tham gia, năm 1927, tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội thành lập chi bộ ở làng Tân Xuân, để rồi 3 năm sau đó cũng tại nơi đây chi bộ Ðảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh ra đời. Anh thanh niên Lê Tấn Phát, thành viên của tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội đã xuất dương sang Quảng Châu (Trung Quốc) để học tập rồi tham gia cách mạng bằng số tiền quyên góp của nhiều đồng chí, bạn bè yêu nước ở địa phương.

Đặc biệt, trong cuộc trường chinh kéo dài suốt 30 năm chống Pháp rồi chống Mỹ, tinh thần yêu nước, bất khuất của người dân Ba Tri được nhân lên gấp bội, góp phần xứng đáng vào truyền thống của Bến Tre kiên cường. Cùng với những tên người, những địa danh Tân Xuân, Ba Mỹ, đầm Liệt Địa (Lạc Địa), cù lao Lá, cồn Đất, cồn Nhàn, An Bình Tây đã đi vào lịch sử, và trong thực tế đã trở thành một bộ phận máu thịt của lịch sử địa phương Bến Tre.

Về phương diện văn hóa, Ba Tri cũng là nơi có một trữ lượng ca dao, dân ca phong phú, từ hò, lý, vè, nói thơ, hát bội đến điệu hát sắc bùa còn lưu giữ được ở xã Phú Lễ. Những cuộc khảo sát điền dã của Viện Khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh còn cho biết thêm Ba Tri có một trữ lượng sách Hán Nôm đáng kể nằm rải rác trong dân, mặc dù đã trải qua hai cuộc chiến tranh tàn phá khốc liệt.

Đình Phú Lễ được xây dựng từ năm Minh Mạng thứ 7 (1826) với lối kiến trúc quy mô và độc đáo cũng là một di tích văn hóa được xếp hạng của tỉnh.

Những nhân vật tiêu biểu như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Thanh Giản - người tiến sĩ đầu tiên của đất Gia Định, Sương Nguyệt Anh - người phụ nữ Việt Nam đầu tiên làm chủ bút một tờ báo, tờ Nữ giới chung... không chỉ là những gương mặt văn hóa của địa phương mà là chung cho cả nước. Có lẽ cũng cần nhắc đến một gương mặt văn hóa khác tuy không phải là dân Ba Tri, nhưng đã được đông đảo sĩ phu Nam Kỳ kính trọng, đó là vị túc nho, người thầy giáo nổi tiếng Võ Trường Toản, mà hài cốt đã được các học trò của ông di dời về đất Bảo Thạnh, trong phong trào “tị địa”, lúc ấy (1862) vẫn còn là vùng tự do.

Là một huyện ven biển, đất đai Ba Tri chủ yếu là ruộng và giồng, không có vườn tược trù phú như các huyện phía tây. Ngoài nghề trồng lúa và nghề làm giồng, làm muối, đánh bắt hải sản, nhân dân ở đây, trước năm 1945, còn có nghề ươm tơ, dệt lụa. Lụa Ba Tri đã từng nổi tiếng trên thị trường Nam Kỳ. Do chiến tranh, nghề này đã bị mai một dần và cho đến nay chưa đủ điều kiện để phục hồi.

Từ sau ngày giải phóng đến nay, Ba Tri đã có những đổi thay rất lớn trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Từ chỗ thiếu đói với nền kinh tế nghèo nàn, què quặt, ngày nay Ba Tri không những đã tự lực giải quyết nhu cầu lương thực, mà còn có dự trữ. Thủy sản, thế mạnh thứ hai của huyện, cũng đã có bước nhảy vọt về sản lượng đánh bắt và nuôi trồng, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của huyện.

Thành tích lớn nhất của huyện Ba Tri sau 38 năm giải phóng (1975 – 2013) là việc xây dựng hệ thống thủy lợi. Vốn là một huyện ven biển, nước mặn, đồng chua chỉ thích hợp với cây chà là gai, thiếu nước ngọt nghiêm trọng, đến nay 100% diện tích đất nông nghiệp Ba Tri được tưới nước ngọt sản xuất được 3 vụ ăn chắc/năm. Toàn huyện có hệ thống thủy lợi dài 671 km, trong đó có nhiều tuyến kênh dài từ 10 đến 22 km như Kênh Trục Bắc Nam, kênh 9A, kênh Tự Chảy, Rạch Ba Tri, Cánh đồng Phụng… Ngoài ra Ba Tri còn có một hệ thống đê ngăn mặn và đê biển dài gần 75 km.

Nhờ hệ thống thủy lợi hoàn chỉnh nên diện tích cấy lúa từ 17.000 ha ngày đầu giải phóng (1975), nay tăng lên 39.291 ha với năng suất bình quân 50 tạ/ha; có nơi năng suất đạt trên 6 tấn/ha. Nếu năm 1975 – 1976, sản lượng thóc của Ba Tri là 20.000 tấn thì nay đạt 200.500 tấn, tăng gấp 10 lần, chiếm khoảng 1/3 sản lượng thóc của tỉnh.

Các công trình thủy lợi không chỉ phục vụ cho việc tưới tiêu các cánh đồng lúa, mà còn cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt hàng ngày của người dân, tạo điều kiện để chuyển đổi đất giồng thành vườn tược xanh tươi, làm thay đổi môi trường sống. Cây ăn trái, cây mía, hoa màu đều tăng, tạo điều kiện cho ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển đáng kể. Riêng đàn bò đã tăng lên 72.392 con.

Thế mạnh thứ hai của Ba Tri là thủy sản. Nếu năm 1976, toàn huyện chỉ có 300 tàu thuyền, phần lớn là loại nhỏ chỉ đánh bắt ven bờ, thì năm 2013, có 1.668 chiếc, trong đó có 1.202 tàu đánh bắt xa bờ, có công suất bình quân 300 CV/tàu. Nếu những năm đầu sau giải phóng đạt trên dưới 3.000 tấn/năm, thì đến năm 2013, tổng sản lượng hải sản đánh bắt lên đến 71.250 tấn.

Trước đây hầu như trong huyện không có tập quán nuôi trồng thủy, hải sản, thì nay có 5.213 ha nuôi thủy sản các loại, trong đó có 1.699 hecta nuôi tôm công nghiệp. Sản lượng thu hoạch năm 2013 là 16.810 tấn, trong đó gồm 8.480 tấn tôm, 7.030 tấn cá và 1.300 tấn nghêu sò các loại.

Sản lượng muối năm 2013 đạt 31.634 tấn. Thu nhập bình quân đầu người năm 2013 là 24,038 triệu đồng. Số hộ nghèo trong huyện là 10.030 hộ, chiếm 15,06% tổng số hộ trong huyện. (thống kê năm 2012).

Về giao thông, tổng chiều dài đường bộ là 756 km, trong đó có 378,5 km đã được trãi nhựa và bê tông hóa, 220 km đã được nâng cấp bằng đá hỗn hợp. Xe ô tô đến trung tâm 24/24 xã, thị trấn trong huyện rất thuận tiện.

Điện lưới quốc gia phủ khắp các xã, thị trấn, với tổng số hộ sử dụng điện, chiếm 99,35% số hộ trong huyện.

Về y tế, huyện có một bệnh viện đa khoa với 240 giường, các tuyến xã và khu vực có 127 giường; có 1 bác sĩ chuyên khoa 2; 2 bác sĩ chuyên khoa 1; 37 bác sĩ đa khoa; 90 y sĩ, 3 dược sĩ và 246 điều dưỡng viên trung cấp. Bình quân đạt 12,29 bác sĩ trên 1 vạn dân.

Bộ mặt văn hóa của huyện cũng có những thay đổi đáng kể. Do điều kiện kinh tế phát triển tương đối nhanh, bộ mặt nông thôn đã trở nên khang trang, sạch đẹp hơn, nhà cửa được xây dựng mới, không hiếm những nhà xây hiện đại, phương tiện nghe nhìn, đi lại gần như phổ biến đều khắp. Hiện huyện đã xây dựng được 22/24 xã, thị trấn văn hóa. Trong công tác xây dựng xã Nông thôn mới, đến nay huyện có 20/20 xã hoàn thành đề án qui hoạch xây dựng nông thôn mới và đang trong giai đoạn triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, huyện đã hoàn thành công tác phổ cập giáo dục tiểu học và Trung học cơ sở và hiện đang tiếp tục phổ cập giáo dục Trung học phổ thông. Phong trào thể dục thể thao phát triển khá mạnh ở thị trấn cũng như ở nhiều xã.

Tổng kết về thành tích trong cuộc kháng chiến cứu nước, huyện Ba Tri và 19/24 xã, thị trấn được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND, gồm các xã: An Bình Tây, Tân Xuân, Mỹ Chánh, Mỹ Hòa, Mỹ Thạnh, Tân Hưng, Mỹ Nhơn, Phú Lễ, Phú Ngãi, Bảo Thạnh, Bảo Thuận, Vĩnh Hòa, Vĩnh An, Tân Thủy, An Thủy, Thị Trấn, An Đức, An Hiệp và An Ngãi Tây.

MÙA HÈ XANH 2018

Sáng ngày 14/7/2018, tại Cơ sở 1 (Số 51, đường Quốc Hương, phường Thảo Điền, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh), Ban Chấp hành Đoàn - Hội khoa Quản lý Văn hóa, nghệ thuật tổ chức Lễ ra quân Mặt trận Mùa hè xanh xã Mỹ Chánh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Đến tham dự có đồng chí Vòng Trong Minh - Phó Bí thư thường trực Đoàn Trường, Chỉ huy phó Chiến dịch tình nguyện "Mùa hè xanh" lần thứ 25 - năm 2018. 

Sau đó, các chiến sỹ khăn nón lên đường di chuyển đến mặt trận. Dù đường đi về địa phương khá xa và có gặp khó khăn trong di chuyển. Tuy nhiên, các chiến sỹ đoàn kết một lòng, gạt bỏ khó khăn, đến nơi với tinh thần thoải moái nhất, luôn sẵn sàng để tổ chức các hoạt động nơi địa bàn. Đúng là một Mùa hè thật xanh của những con người tình nguyện đầy năng động và nhiệt huyết.

Đến nơi, các chiến sỹ tham dự buổi Lễ đón quân thật ấm cúng và thân mật của Ban Chấp hành Xã Đoàn Mỹ Chánh. Đến dự có các đồng chí lãnh đạo chính quyền địa phương và các đồng chí trong Ban Chỉ huy Chiến dịch Thanh niên tình nguyện hè năm 2018. 

Chúc cho các chiến sỹ sẽ hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, chúc cho mặt trận gặt hái được nhiều thành công!

Mùa hè xanh Bến Tre - ghi dấu hè tình nguyện trên xứ dừa!!!

Nguồn: Internet, Nhật Tiến, Minh Trí.

Share:

Tags: Law, Juggement, lawyer, Cases